Có một điểm chung đối với các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, biến đổi khí hậu hoặc chính trị là những người tham gia thường chia thành hai phe đối lập với các mức độ phân cực khác nhau: có người theo chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa xã hội, có người tín ngưỡng hoặc vô thần , có người theo phe cánh tả hoặc cánh trái…vv…Và quản lý danh mục đầu tư là một trong những chủ đề như vậy với nhiều trường phái gây tranh cãi trong nhiều thập kỷ.
Câu hỏi thứ nhất là liệu thị trường chứng khoán có phải là thị trường hiệu quả, trong đó giá thị trường đã phản ánh đầy đủ các kỳ vọng hợp lý của người tham gia về tương lai và do đó đã phản ánh giá trị nội tại của mỗi chứng khoán.
Câu hỏi thứ hai là về sự đa dạng hóa danh mục đầu tư: bạn nên đa dạng hóa các khoản đầu tư của mình đến mức nào để tối ưu hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro của danh mục đầu tư. Thực tế cho thấy đại đa số các nhà đầu tư tin rằng đa dạng hóa là phương pháp tốt nhất để giảm thiểu rủi ro vì nó giảm thiểu sự biến động của danh mục đầu tư. Đó có lẽ là lời khuyên thường xuyên nhất từ các nhà tư vấn tài chính.
Rất ít người tin rằng đầu tư tập trung là lựa chọn ít rủi ro hơn. Tuy nhiên, đây chính là phương pháp đầu tư của nhà đầu tư vĩ đại nhất, Warren Buffett. Đầu tư tập trung là phương pháp tối ưu để đánh bại thị trường trong nhiều năm. Sau khi nghiên cứu thành tích của các nhà đầu tư nổi tiếng khác bao gồm Phil Fisher, Charlie Munger, Bill Ruane và Lou Simpson, chúng ta có thể rút ra được kết luận rằng: xác suất đánh bại thị trường tăng mạnh khi quy mô đa dạng của danh mục đầu tư đi xuống.
Lấy ví dụ từ danh mục đầu tư của Berkshire năm 1988-1997, trong đó lợi nhuận hàng năm là 29,4% so với mức tăng 18,9% của S&P 500. Năm 1988, Coca Cola chiếm 20,7% danh mục cổ phiếu phổ thông của Berkshire và sau đó trong khoảng thời gian 10 năm đã tăng lên tới 43% và đã mang lại lợi nhuận trung bình hàng năm là 34,7% trong suốt giai đoạn này.
Trong trường hợp nếu Buffett không nâng cao vị thế của mình mà chỉ đơn giản là duy trì sự cân bằng trong danh mục mỗi năm, tức là thường xuyên tái cân bằng các vị thế của mình để ngăn cho bất kỳ vị thế nào như Coca-Cola trở nên quá lớn. Thì lợi nhuận danh mục đầu tư sẽ chỉ còn 27% hàng năm. Còn nếu Buffett điều hành một danh mục đầu tư đa dạng gồm năm mươi loại cổ phiếu có khả năng sinh lợi trên thị trường, ông sẽ chỉ tạo ra lợi nhuận 20,1% , nghĩa là chỉ tốt hơn 1,2% so với thị trường (chưa bao gồm chi phí giao dịch).
Một nhà đầu tư huyền thoại theo quan điểm đầu tư tập trung khác là John Maynard Keynes, mặc dù hầu hết mọi người đều biết đến ông vì những đóng góp trong lý thuyết kinh tế. Thành tích đầu tư của ông có thể được tìm thấy trong hồ sơ hoạt động của Quỹ Chest tại trường King’s College ở Cambridge từ năm 1928 đến năm 1945. Tại đó, Keynes đã phác thảo chiến lược đầu tư của mình là đầu tư tập trung vào một số ít cổ phiếu nhất định, cổ phiếu của những doanh nghiệp có chất lượng cao và sử dụng phân tích cơ bản để ước tính giá trị so với giá. Trong 18 năm làm việc tại quỹ, Keynes đã đạt được tỷ suất sinh lợi trung bình hàng năm là 13,2% trong khi thị trường chứng khoán Anh về cơ bản vẫn đi ngang. Xét rằng trong khoảng thời gian bao gồm cả cuộc Đại suy thoái và Thế chiến thứ hai, chúng ta có thể nói rằng hiệu suất của Keynes là phi thường.
Mặc dù vậy, Quỹ Chest đã trải qua một số giai đoạn thiệt hại cao hơn mức độ biến động của thị trường và có những giai đoạn nó hoạt động kém hơn đáng kể so với thị trường chứng khoán Anh. Các nhà đầu tư của quỹ rõ ràng đã trải qua một chặng đường gập ghềnh hơn so với danh mục đầu tư đa dạng hóa nhưng cuối cùng họ lại có được hạnh phúc và giàu có hơn nhiều.
Theo: Valueway